Vị Trưởng Lão mù lòa và băng cướp cạn – Ngàn Lẻ Một Đêm ở xứ Ba Tư

Vị Trưởng Lão mù lòa và băng cướp cạn – Ngàn Lẻ Một Đêm ở xứ Ba Tư:

(Hỗ trợ đọc dễ hơn trên nền tảng di động:
+ Trình duyệt Safari của iPhone: Tìm & bật Show Reader View.
+ Trình duyệt Chrome của Android: Tìm & bật Zoom Text.)

    Vào một đêm kế tiếp, vua Shahryar của xứ 3 4 lại háo hức lắng nghe nàng Scheherazade kể câu chuyện của mình:

    Ngày xửa ngày xưa, tại một vùng hoang mạc khô cằn cạn nước, nắng nhiều hơn mưa, gió cuốn theo bụi mù, tưởng chừng như chỉ những sinh vật nhỏ bé tồn tại trong những hang hốc hoặc khe đá mới có thể sống được, như: rắn rít, bò cạp,… thì lại tồn tại một nhóm người luôn đi đi về về giữa chốn hoang mạc mà chẳng hề sợ hãi. Họ không sống trong hoang mạc, mà chủ yếu cư ngụ trong những khe núi đá ở bên bờ rìa hoang mạc vào buổi sáng, để tránh những tia nắng mặt trời vào ban ngày. Ban đêm thì chỉ có những ánh lửa bập bùng trong hẻm núi đá bên rìa hoang mạc, đối ứng với những vì sao đang le lói trên nền trời. Họ chẳng khác nào những sinh vật nhỏ bé đang trú nắng trong hốc đá, chỉ khác là họ to bự hơn nên cũng cần chổ trú lớn hơn mà thôi.
    Một trong những niềm hy vọng chủ yếu, mà giúp họ tồn tại giữa chốn hoang mạc khô cằn cháy nắng này, là những ốc đảo nhỏ bé mà vốn chỉ cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho họ và bầy ngựa, lạc đà. Kiểu nhu yếu phẩm mà một ốc đảo nhỏ bé có thể cung cấp được thường là nước và thực phẩm kiểu nhai nuốt cho có, như: rau cỏ, chà là, dầu cọ, ngũ cốc các loại, rất thích hợp cho ngựa và lạc đà, còn với con người thì thật sự là chán chê.
    Còn có một niềm hy vọng khác, mà nhờ đó giúp họ sống sót ở nơi hoang mạc khô cằn nắng nóng này, đó là những đoàn lữ hành đi ngang qua hoang mạc. Thường thì họ chặn đoàn lữ hành lại để xin xỏ, đổi lại họ dẫn đoàn lữ hành tới ốc đảo, nhưng quả thật là ốc đảo nơi này quá nhỏ, còn không đủ dùng cho họ, thì làm sao đủ dùng cho cả một đoàn lữ hành. Đôi khi họ còn gặp phải những đoàn lữ hành ăn tàn phá bạo, cho ngựa và lạc đà ăn sạch cỏ cây hoa lá, rồi còn làm ô uế ốc đảo, mà là nguồn sống thường xuyên ít ỏi của họ. Mà dạo này thì các đoàn lữ hành đi ngang qua hoang mạc cũng ít quá. Kỳ thực là việc xin-cho chẳng mang lại gì nhiều cho họ, thi thoảng họ còn bị xua đuổi phỉ báng, thậm chí họ còn bị đuổi đánh từ những đoàn lữ hành. Họ là những người sống ở bên bờ rìa, và một ngày kia họ quyết định trở thành một băng cướp cạn.

    Vào một đêm nọ, sau khi kết thúc bữa tối đạm bạc với chà là và một nhúm hạt ngũ cốc cầm hơi, trong ánh sáng lập lòe nơi ánh lửa, và văng vẳng tiếng ca hát mà nghe như tiếng rên rỉ của đám đàn em đang sinh hoạt cộng đồng, trùm băng cướp đang nằm lim dim mơ màng thì chợt tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng vó ngựa từ đằng xa vọng lại, đó là Dọ Thám vừa mới về. Vừa bước xuống ngựa, Dọ Thám vội nói:
    - “Đại ca, có một đoàn lữ hành sắp đi ngang qua hoang mạc, sáng mai sẽ tới địa phận của chúng ta”.

    Nghe vậy, Trùm Cướp khấp khởi trong bụng, sau bao ngày đói meo râu, giờ thì con mồi đã đến. Trùm Cướp bảo Dọ Thám mau nhai nuốt cầm hơi, và lệnh cho cả đám lâu la nghỉ ngơi, rồi sáng mai sẽ đi sớm chặn đầu đoàn lữ hành.

    Đoàn lữ hành vốn dĩ là một đoàn hành hương Ả Rập đang đi về phía thánh địa. Đoàn bao gồm 10 người, họ mang theo một số lượng nhu yếu phẩm, và một ít tài sản được dùng để mua thêm nhu yếu phẩm và hàng hóa dọc đường hành hương. Toàn bộ số đồ đạc mang theo được cõng trên lưng lạc đà. Đoàn lữ hành hiện đang ở bên bờ rìa hoang mạc để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho đoạn tiếp theo của chuyến hành hương. Trong túp lều vải căng tạm, 10 người của đoàn hành hương đang xì xào xì xầm bàn luận về việc họ nên chọn tuyến đường nào trong chặn đi này. Nếu họ đi xuyên qua hoang mạc, thì đó là con đường ngắn nhất để hướng tới thánh địa, nhưng họ cũng lo lắng khi nghe nói có băng cướp cạn trong hoang mạc. Còn nếu họ đi đường vòng, thì sẽ xa hơn, tốn nhiều thời gian hơn, nhưng bù lại sẽ có nhiều trạm dân cư để họ tạm dừng chân nghỉ lại, nên cũng giúp giảm khả năng gặp phải cướp đường.
    Sau một hồi thảo luận và cân nhắc, họ quyết định đi xuyên qua hoang mạc, vì số lượng nhu yếu phẩm mà họ đem theo không đảm bảo cho một chuyến đi dài lâu, phần nữa họ cũng nên đến thánh địa kịp lúc. Họ cũng cho rằng ít có khả năng gặp phải cướp cạn khi đi qua hoang mạc, vì những lần hành hương trước đây họ chưa từng gặp phải cướp, nếu có gặp cướp thì họ sẽ tìm cách để đối phó lại, mà nếu như phải gặp cướp thì họ cũng đồ rằng chính đó là những thử thách của thượng đế dành cho họ trong chuyến địa hành trình dài. Quyết định là vậy, ngay vào lúc mặt trời mọc, đoàn hành hương khởi hành, cưỡi lạc đà, mang theo hành lý, rồi tiến vào hoang mạc.

    Trong cái ánh nắng chói chang của ban ngày sa mạc, cộng với những cơn gió cuốn theo bụi mù, những con lạc đà thong dong rảo bước, cõng theo những con người mặc áo choàng che kín từ đầu tới đuôi, cùng hàng hóa của họ. Dẫn đầu đoàn hành hương là vị Trưởng Đoàn ở độ tuổi trung niên giàu kinh nghiệm dẫn đường, ông biết cách định hướng vào ban đêm nhờ vào sao bắc đẩu, còn ban ngày thì ông định hướng bởi bóng nắng và mặt trời. Trong đoàn hành hương có một vị Trưởng Lão già, lớn tuổi nhất trong đoàn, ông lão bị lòa mắt, và đây có lẽ là chuyến hành hương cuối cùng của đời ông. Ông lão lắc lư nhè nhẹ theo nhịp bước của con lạc đà đang cưỡi, mắt lim dim, chú tâm đọc những lời cầu nguyện thượng đế. Hòa vào những lời cầu nguyện thượng đế là tiếng phần phật của gió cát sa mạc chạm mạnh vào manh áo.

    Và khi đoàn hành hương đang êm đềm tiến bước nơi hoang mạc nắng gió, thì bỗng đâu họ nghe thấy từ đằng xa, ngoài tiếng gió rít, là tiếng ngựa hí xa xa, liền theo đó là đám mây bụi mù cuốn thành từng cuộn ở nơi có tiếng ngựa hí vang trời…
    Bây giờ, trước mặt họ là hai con người cùng cưỡi… một con ngựa, tay lăm lăm đao kiếm. Đó chính là Trùm Cướp và Dọ Thám. Dọ Thám ngồi phía trước thúc ngựa chồm lên đầy hiển hách, còn Trùm Cướp thì ngồi sát rạt phía sau, một tay ôm eo Dọ Thám, còn tay kia thì vung cao ngọn kiếm, hào hùng hét lớn:
    - “Bọn ta là thảo khấu sa mạc đây, hãy chuẩn bị cống nạp đi”.

    Cả đoàn hành hương trố mắt nhìn, kẻ run người sợ, vì chưa bao giờ thấy cái cảnh tượng hoang tàn ấy – hai thằng cướp cạn ôm nhau xà nẹo ưỡng ẹo trên lưng… một con ngựa… gầy guộc. Duy chỉ có Trưởng Đoàn nghĩ thầm trong ruột rằng: “Hai thằng ma bê đê ốm đói này mà cũng đòi đi cướp, xem chúng cầm kiếm còn không muốn nổi nữa là, một mình ông đây chấp cả 2 thằng mày, chứ cần gì cả đoàn 10 người đánh hội đồng 2 đứa bây”. Coi mòi hiểu được ý của Trưởng Đoàn, Trùm Cướp liền nói lớn:
    - “Các ngươi chớ vội xem thường, đàn em bọn ta sắp tới đây”, rồi vung kiếm chỉ về hướng xa.

    Quả thật từ xa có một đám mây bụi mù đang dần hiện rõ, không có tiếng ngựa hí, mà chỉ có tiếng í ới hú hét inh ỏi.
    Từ đằng xa, một đám ma lạc đà ốm đói lạch bạch chạy lại, mỗi con lạc đà lại tống 2 tống 3 tên cướp gầy tong gầy teo, tên nào tên nấy đều hăm he vũ khí trên tay. Vừa tới nơi là bọn chúng từ trên lưng lạc đà phóng liền xuống đất, có tên vội nhảy xuống khi con lạc đà còn đang chạy, chưa kịp dừng lại, nên y té cái uỵch đập mặt xuống nền cát, tên cướp vụng về vội lồm cồm bò dậy, tay lia lịa phủi đám bụi cát dính đầy mặt, quệnh với mồ hôi mồ kê, gã bước đi lảo đảo liêu xiêu nghiêng ngã, gia nhập vào đám lâu la, rồi cả đám chia nhau ra, bao vây lấy đoàn hành hương. Trùm Cướp gặn hỏi nhỏ tên đàn em vừa bước tới:
    - “Tụi mày đi lâu vậy, thiếu điều tao với thằng Thám định bỏ chạy đi kiếm tụi bây rồi?”.
    - “Anh Trùm thông cảm, lạc đà đâu chạy nhanh bằng ngựa, mà tụi em đều: 3 anh em trên một con lạc đà… ốm yếu, nên con lạc đà càng chạy chậm hơn nữa.”, tên cướp hổn hển phân trần.

    Lúc này, Trưởng Đoàn hành hương đếm đâu đó cũng được hơn 20 tên cướp cạn, tuy chúng khá yếu ớt, nhưng rõ ràng là chúng đông đúc hơn rồi, và trông chúng cũng rất liều mạng. Xét riêng về độ liều mạng, thì rõ ràng các thành viên của đoàn hành hương không thể nào bằng một phần mấy bọn chúng, Trưởng Đoàn đành thúc thủ, bối rối không nói nên lời.

    Sau khi vô hiệu hóa mọi người trong đoàn hành hương, Trùm Cướp cho đàn em kiểm đếm tất cả lượng hàng hóa của đoàn hành hương, được mang theo trên lưng lạc đà. Sau đó, Trùm Cướp yêu cầu đoàn hành hương phải để lại một nửa số hàng hóa của họ cho băng cướp cạn, đa phần chúng sẽ lấy một phần tài sản, còn nhu yếu phẩm sẽ chỉ lấy một ít, để lại phần nhiều nhu yếu phẩm để đoàn hành hương tiếp tục lên đường.
    Trưởng Đoàn hành hương được cử ra để thương lượng, nhưng Trùm Cướp nhất quyết không thay đổi ý định, y nói rằng: Nếu không theo ý hắn, thì hắn sẽ cướp hết, chỉ chừa lại một chút ít nhu yếu phẩm, đủ để đoàn hành hương quay ngược trở lại bờ rìa hoang mạc. Tuy nhiên, hắn cũng thể hiện sự nhượng bộ rằng: Băng cướp cạn sẽ dẫn đoàn hành hương tới ốc đảo, để cho họ nghỉ ngơi và cho lạc đà uống nước, để họ lấy thêm nước uống và đồng thời cho phép họ thu hoạch bất cứ nông sản gì có trên ốc đảo.

    Trước tình thế này, mọi người trong đoàn hành hương đành hội ý với nhau. Sau khi cả đoàn hành hương xì xầm xì xào hội ý xong, vị Trưởng Đoàn dẫn dìu theo vị Trưởng Lão già mù lòa đến nói chuyện với Trùm Cướp. Vị Trưởng Lão mù lòa đưa hai tay ngang mặt, lòng bàn tay xòe ra thả lỏng hướng vào mặt, mu bàn tay hướng ra ngoài, rồi mở lời:
    - “Vì sự chí tôn của thượng đế, ngài không thể chỉ lấy một phần ba lượng hàng hóa thôi sao?”
    - Trùm cướp trầm ngâm một lúc rồi trả lời: “Chắc lão lòa mắt nên không thấy rõ rồi, còn thượng đế chí tôn thì biết rõ vùng đất hoang mạc này khô cằn, nắng cháy, khắc nghiệt như thế nào. Liệu ta có thể hỏi thượng đế bao giờ thì mưa xuống hay không?”.
    - Vị Trưởng lão gật gù, rồi đáp lời: “Ngài biết không, tôi chưa bao giờ muốn hỏi thượng đế chí tôn về sự mù lòa của mình, cho dẫu năm nào tôi cũng hành hương tới thánh địa”.
    - Ra chiều hiểu ý, Trùm Cướp chốt hạ: “Cũng như lão thôi, bọn ta cũng hiểu và tôn trọng ý chí của thượng đế dành cho vùng đất này. Nhưng dạo này bọn ta kiếm ăn khó khăn lắm, không còn nhiều đoàn lữ hành qua lại lối này. Ta cũng đã nhượng bộ dẫn đường các người tới chỗ ốc đảo rồi, nên ta không thể nhượng bộ thêm được nữa”.
    - Biết không thể thuyết phục được Trùm Cướp, vị Trưởng lão cau mày rồi nói: “Theo ý ngài vậy, nhưng xin để chúng tôi chia lượng hàng hóa ra làm 8 phần, rồi sẽ chia lại một nửa của 8 phần hàng hóa này cho ngài, ngài bằng lòng không ạ?”.
    - Chẳng phải suy nghĩ lâu, Trùm Cướp liền hăm hở đáp lời: “Được! Làm đi, đợi gì”.

    Vậy là mọi người tập trung lại phân chia hàng hóa. Trong lúc mọi người đang phân chia hàng hóa, Trùm Cướp thấy mình ở không, liếc thấy vị Trưởng lão mù lòa đang gục gật đầu cầu nguyện, chả biết phải làm gì, nên y bước đi hai hàng, một tay cầm kiếm gác lên vai, một tay vuốt râu, hiên ngang kiêu hãnh bước tới gần vị Trưởng lão. Sau một hồi tò mò ngó nghiêng vị Trưởng lão, hắn mở lời:
    - “Liệu thượng đế chí tôn có lắng nghe lời cầu nguyện của ông không?”.
    - Trong một khoảnh khắc, khuôn mặt vị Trưởng lão ánh lên một nét cười rất rất nhẹ, mà chỉ có đám ruồi nhặng đang vo ve bu gần khuôn mặt của ông mới có thể thấy rõ được, ông lão trả lời: “Niềm tin vào thượng đế là một vận may, thưa ngài. Ngài đừng tưởng tất cả mọi người trong đoàn hành hương đều có niềm tin giống nhau, một số trong họ lòng đầy hoài nghi về thượng đế. Còn ở ngài thì chỉ có sự oán trách thượng đế mà thôi.”
    - Ngừng một chút, ông lão tiếp lời: “Tôi chỉ không nhìn thấy rõ nữa cách đây vài năm thôi, đó là khoảng thời gian khó khăn. Nhưng rồi trong sự mờ đục đó, thượng đế đã giúp tôi tưởng nhớ lại rất nhiều điều đẹp đẽ đã xuất hiện trong quá khứ của tôi. Thượng đế đã làm cho những ký ức đẹp đẽ đó trở thành vĩnh cửu nơi tôi. Tôi nhận ra mình không cần phải nhìn thấy thêm nữa, tôi đã già, đã nhìn đủ rồi, không cần phải nhìn rõ, thì cũng đã đủ hiểu, nhìn thấy thêm chỉ làm nhiễu đi những ký ức tươi đẹp thuở nào. Đó là đặc ân của thượng đế, và tôi dâng lời cảm tạ thượng đế mỗi ngày.”
    - Ông lão nói tiếp: “Thượng đế làm cho tôi nhìn thấy được điều tôi có được, mà ở ngài không có được. Nhưng người lại không làm cho ngài nhìn thấy được điều ngài có, mà ở tôi không có. Ngài có sự tự do, thời gian, và những chọn lựa cho cuộc sống của ngài. Thượng đế làm cho tôi thấy được rằng ngài chẳng tệ hơn chúng tôi là mấy. Ở ngài là sự thuần khiết như chốn hoang mạc này vậy, trơ trọi, và cô độc, nhưng le lói đâu đó bên trong ngài lại tràn đầy sức sống và hy vọng, giống như cái ốc đảo trên hoang mạc này, cái ốc đảo mà ngài sắp dẫn chúng tôi đến.”
    - “Ngài đừng buồn, tất cả chúng ta đều có quyền phán xét, nhưng thượng đế lại nắm quyền phán xét cuối cùng. Vì thượng đế là đấng luôn thấu tỏ được những sự thực bị lấp liếm, hoặc bị che giấu.”
    - “Còn niềm tin thì quý giá như vàng ngọc vậy, thưa ngài, chỉ dành cho một vài, chứ không dành cho tất cả. Thượng đế muốn trao niềm tin thì sẽ có niềm tin, muốn trao hoài nghi thì sẽ có hoài nghi, muốn trao oán trách thì sẽ có oán trách”. Ông lão chốt hạ: “Xin ngài thông cảm, tôi già rồi, nên nói nhiều quá”.

    Trùm Cướp một tay vuốt râu, chu mỏ trầm ngâm, khẽ gật gù ra chiều đăm chiêu lắm. Nhưng với trình độ học vấn cấp độ thảo khấu sa mạc thì chẳng biết Trùm Cướp hiểu được mấy phần lời ông lão nói. Bỗng rồi Trùm Cướp nghe tiếng Dọ Thám gọi với lại:
    - “Đại ca, lại nhìn nè”.

    Trùm Cướp bước lại chỗ Dọ Thám, rồi nghe Dọ Thám kể lại rằng: Đoàn hành hương chỉ chia cho băng cướp cạn 3 phần hàng hóa, trong khi đúng ra chúng phải được nhận 4 phần hàng hóa theo như thỏa thuận. Trùm Cướp nghe xong thì giận lắm, nhưng vì cũng có chút cả nể với vị Trưởng Lão già, nên chỉ vung kiếm chém mạnh vào không khí, rồi lớn tiếng gằn giọng hỏi vị Trưởng Lão mù lòa vì sao lại làm trái với thỏa thuận. Vị Trưởng Lão mù lòa ôn tồn xoa dịu Trùm Cướp và xin hắn để cho ông có cơ hội giải thích. Đoạn rồi vị Trưởng Lão gọi Trưởng Đoàn lại nói nhỏ.
    Trưởng Đoàn nghe Trưởng Lão nói xong, thì cầm một cây gậy, vẽ một số 8 xuống nền cát. Rồi từ ngay chính giữa đỉnh của số 8, Trưởng Đoàn xổ một đường thẳng dọc từ trên xuống dưới, chia số 8 ra làm 2 nửa, làm thành 2 con số 3 (gồm: 1 số 3 thuận và 1 số 3 ngược).
    Trùm Cướp nhìn thấy xong thì ngẩn người, suy nghĩ một hồi, rồi gã hỏi vị Trưởng Lão mù lòa:
    - “Vậy tại sao lại không chia ngang số 8, mà lại chia dọc số 8?”
    - Vị Trưởng Lão đáp: “Thưa ngài, thượng đế chí tôn làm cho chúng tôi biết rằng: chia ngang là không thể chấp nhận được, còn chia dọc thì có thể chấp nhận được. Trước sự chứng giám của thượng đế chí tôn, xin ngài hãy tôn trọng thỏa thuận giữa chúng ta.”
    - Trưởng Lão nói tiếp: “Thưa ngài, với cách chia như vậy thì đã nhiều hơn mong muốn của chúng tôi lúc ban đầu rồi. Và chúng tôi cũng không cần ngài phải dẫn chúng tôi tới ốc đảo, vì với lượng nhu yếu phẩm và tài sản này thì cũng đã đủ để chúng tôi tiếp tục chuyến địa hành trình rồi. Hơn nữa, chúng tôi cũng cần đi gấp để tới thánh địa kịp lúc.”

    Trùm Cướp nhíu mày, chu mỏ, trầm ngâm một hồi rồi đành chấp nhận lời đề nghị của vị Trưởng Lão mù lòa, trong lòng Trùm Cướp thầm nể phục sự khôn ngoan của vị Trưởng Lão già mù lòa.

    Các phần hàng hóa của mỗi bên được đóng lên lưng lạc đà ngay sau đó. Mọi người trong đoàn hành hương cũng đã sẵn sàng để tiếp tục chuyến địa hành trình. Trùm Cướp lệnh cho bọn đàn em dẫn lạc đà mang hàng về trước, còn mình và Dọ Thám thì nán lại một chút.
    Khi mọi người trong đoàn hành hương đã yên vị trên lưng lạc đà, họ khẽ thúc lạc đà bước đi, rồi lặng lẽ cúi đầu chào Trùm Cướp đang hiên ngang đứng trấn chu mỏ vuốt râu, một tay thì cầm kiếm gác lên vai. Còn Dọ Thám thì hai tay chống nạnh đứng chếch phía sau lưng Trùm Cướp. Đợi cho mọi người trong đoàn hành hương đã đi qua hết, đoạn rồi Dọ Thám leo lên lưng ngựa, tiếp sau là Trùm Cướp cũng phóng lên lưng ngựa ôm eo ếch Dọ Thám. Trên lưng ngựa, Trùm Cướp dõi mắt nhìn theo đoàn hành hương đang ở một khoảng cách lưng chừng, rồi nói lớn:
    - “Này Trưởng Lão, khi nào tới được thánh địa, hãy cầu nguyện thượng đế ban phước cho vùng đất này, rồi lần sau các người sẽ không bị cướp nữa.”, Trùm Cướp và Dọ Thám đều bật cười ha hả.

    - Vị Trưởng Lão mù lòa từ xa xa đáp lớn vọng lại: “Cái gì không nằm trên mặt đất thì nằm dưới lòng đất.”
    - Còn vị Trưởng Đoàn hành hương lại khẽ nói: “Trưởng Lão nên bảo bọn chúng sắm thêm một con ngựa nữa, hai người cưỡi một con ngựa nhìn không hợp nhãn chút nào.”
    - Một người khác trong đoàn hành hương lại khẽ đáp: “May mà chúng ta không mang theo ngựa.”

    Nghe xong, mọi người trong đoàn hành hương đều cười nắc nẻ, vị Trưởng Lão mù lòa cũng gật gù khẽ cười. Tiếng cười của họ ngược theo chiều gió vang đến tai của Trùm Cướp và Dọ Thám. Dọ Thám quay sang Trùm Cướp hỏi:
    - “Lão già nói gì vậy đại ca, hay trong lòng đất có vàng, bạc, đá quý chi đó?”
    - “Hay lão muốn nói đến mạch nước ngầm?”, Dọ Thám hỏi tiếp.
    - Trùm Cướp trả lời: “Nước ngầm gì, mi không nhớ lần trước, tụi mình đào giếng, xịt ra cái thứ nước gì đó đen xì, hôi rình, nhớt nhợt. Khó khăn lắm bọn mình mới lấp giếng được đó sao.”
    - “Thôi, chúng ta mau quay về cứ địa, không tụi nhỏ xách đồ đi mất.”, Trùm Cướp ra lệnh. Dọ Thám mau lẹ thúc ngựa phóng đi.

    Trong ánh mắt tinh anh của đại bàng sa mạc đang chao lượn trên bầu trời, là bóng mặt trời tròn trịa đang lặn vào nền cát ở phía xa xa đường chân trời. Ở nơi là sa mạc vĩnh hằng, giữa cái không khí tĩnh mịch cô tịch của bóng chiều vàng hoàng hôn chạng vạng đầy huyễn hoặc ấy, con đại bàng hướng mắt vào một vệt đen nhỏ đang chuyển động ngang qua bóng mặt trời đỏ rực, đó là bóng một con ngựa đang chở trên lưng… hai con người, Trùm Cướp đang ôm eo ếch Dọ Thám, hắn gục đầu trên vai Dọ Thám, thiu thiu ngủ. Tiếng vó ngựa đều đặn lặp đi lặp lại như đang ru ngủ Trùm Cướp, dìu hắn vào một giấc mộng êm đềm. Con đại bàng sa mạc kêu lên một tiếng iếc chát chúa phá tan cái không khí tĩnh lặng lãng mạn đầy chất thơ ấy, và tiếng kêu iếc chát chúa của con đại bàng xuyên thủng qua từng tầng không lan đến tai Trùm Cướp, làm Trùm Cướp tỉnh giấc. Trùm Cướp ngước mặt lên, mắt nhìn vào bóng con đại bàng đang chao liệng trên nền trời, mà lòng đầy nghi hoặc.

(Bởi NKA - Cờ Trung Đại - medChess) - http://cotrungdai.com


Hotline tư vấn: 0819777837
Zalo